Thật không ngờ, người tiến hành các cuộc thử nghiệm tàn ác lại là những bác sĩ, thậm chí còn là những tiến sĩ y sinh học. Họ được học thuật chữa bệnh để cứu sống con người nhưng lại làm điều ngược lại: biến những người khỏe mạnh thành vật thí nghiệm phục vụ chiến tranh…
Trong một phiên tòa xử tội ác chiến tranh sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Hedvah và Leah Stern, hai nhân chứng còn sống mô tả về việc phát xít Đức bắt trẻ sinh đôi làm thí nghiệm: "Bọn chúng xông vào và đạp tung cánh cửa xe ôtô chở gia súc của gia đình chúng tôi. Mẹ tôi thì sợ chết khiếp. Chúng quát lớn: "Lại đây, lũ nhóc". Chúng quát lớn: "Nói cho tao biết chúng có phải là những đứa trẻ sinh đôi không?". Hai nhân chứng vừa kể vừa dùng hai tay thì ôm mặt khóc.
Nhân chứng Eva Mozes nhớ lại: "Khi tôi đang ôm hai bàn tay mẹ thì một sĩ quan lao đến và hối thúc: "Trẻ con đâu, trẻ con đâu?". Chúng dừng mắt chỗ chúng tôi, bởi tôi và Miriam giống nhau quá, mặc quần áo giống nhau, chiều cao giống nhau. Chúng gằn giọng với mẹ chúng tôi: "Chúng có phải là trẻ sinh đôi không?". Mẹ tôi hỏi: "Chúng sẽ được an toàn chứ?". Viên sĩ quan ấy gật đầu. Và mẹ tôi xác nhận chúng tôi là trẻ sinh đôi. Vậy là chúng tôi bị mang đi, chính xác là bị bắt. Sự thật, người ta đã lừa gạt mẹ tôi. Những đứa trẻ sinh đôi không hề được chăm sóc và quan tâm gì cả, chỉ duy nhất một từ mà có thể sử dụng: thử nghiệm".
Những đứa trẻ sinh đôi bị bắt vào trại tập trung và cho đến khi gần chết, chúng vẫn cứ nghĩ mình đang được theo dõi và điều trị đặc biệt.
Một cuộc thí nghiệm.
Lý do bắt bớ vô tội vạ trẻ em sinh đôi là "các bác sĩ cần để theo dõi", nhưng thực ra là chúng đang thu thập những “con chuột bạch”. Chúng nhốt các em vào những khu trại riêng để không một thông tin nào rò rỉ tới tai các em, nuôi các em với một chế độ đặc biệt. Sau khi đã gom đủ số nạn nhân cần thiết, chúng tiến hành các thử nghiệm hết sức dã man. Chúng mổ nạn nhân để quan sát bên trong mà không thèm gây mê, mục đích là xem phủ tạng của trẻ em sinh đôi có giống nhau không. Chúng còn tiến hành truyền máu trực tiếp giữa hai cá thể để xem chúng phản ứng như thế nào, liệu có thể tạo ra những phiên bản người copy từ một đứa trẻ hay không. Thậm tệ hơn, chúng còn cắt một chân, một tay hoặc một cơ quan của một đứa trẻ để xem trẻ sống như thế nào so với người cùng sinh với nó.
Để xem màu mắt có biến đổi hay không, chúng đã tiêm những chất hoá học làm biến đổi màu vào mắt của những đứa trẻ để quan sát. Những "bác sĩ" này cũng không ngần ngại phẫu thuật chuyển đổi giới tính cho bọn trẻ, cho thụ thai lung tung nhằm tìm ra những quy luật di truyền trên người. Thời đó, nhiều đứa trẻ lớn đủ khả nặng nhận thức liên tục nghe thấy những tiếng la hét, những tiếng kêu rên, những tiếng của sự sợ hãi và hoảng loạn. Hàng loạt trẻ em bị bắt, hàng loạt trẻ em bị chết. Song đó không đủ sức mạnh khiến những kẻ gây tội ác dừng lại. Chúng vẫn tiếp tục thử nghiệm.
Kẻ trùm sò đạo diễn cho những màn diễn vô nhân tính này là tiến sĩ y học Josef Mengele. Chỉ trong hai năm 1943 - 1944, hắn đã ra lệnh bắt 3.000 trẻ em sinh đôi, tức là 1.500 cặp trẻ em Hà Lan. Sau hàng loạt những thử nghiệm tàn bạo, gần như số trẻ em này bị chết hết. Chỉ còn 200 trẻ em được thử nghiệm “nhẹ” thì sống sót và đã là nhân chứng cho phiên toà đòi công lý.
Cuối cùng thì tiến sĩ y học Josef Mengele và các thành viên liên quan bị xử án tử hình. Nhưng so với những gì mà chúng gây ra thì không một bản án nào có thể bù đắp được.