Tín ngưỡng phồn thực của người Việt cổ từng được lưu giữ trong nhiều hội lễ giêng hai gắn với những làng có thờ dâm thần như La Khê, Hoài Đức, Hà Nội; Đồng Kỵ, Bắc Ninh; Văn Trưng, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc; đền Bà Banh, Hải Dương; Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ… Quê ấy, từ khai hội đến rã đám, rộn ràng trống hội. Từ sáng mờ đất đến khi nhọ mặt, ngày đu xuân trai khom gối hạc, gái uốn lưng ong; đêm mật, già trẻ hỉ hả vui trò nõ nường… Trong giá rét, khi đã ngấm men say, chỉ mới thoáng nghĩ hay chợt nhớ đến hội làng thì đã nao nức, dậm dật khắp ngõ ngách cơ thể. Tình ấy mới động lòng trời. Xuân ấy mới thực là Xuân
Nay, nhiều tục xưa đã mất, còn lại gần như độc nhất một nơi…
Xưa, bên ngòi nước trong khu rừng trám có một ngôi miếu cổ linh thiêng. Cứ hai hoặc bốn năm một lần - các năm chẵn, vào đầu Xuân, dân làng ở đây lại mở lễ hội diễn nhiều tích trò, nên gọi là miếu Trò, và vì nằm trong khu rừng trám nên còn có tên khác là miếu Trò Trám. Xóm ở đó cũng được gọi tên xóm Trám, hay phường Trám, tên chữ là xóm Cổ Lãm, thuộc làng có tên tục là Kẻ Gáp, tên chữ là Thạch Cáp, nay là xã Tứ Xã nằm trong vùng di tích đồ đá cũ của người Việt cổ như Gò Mun, Đồng Đậu con… ở huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, bởi vậy Lễ hội Tứ Xã cũng có tên gọi khác là Lễ hội Kẻ Gát. Cách Đền Hùng khoảng 5km về phía Đông Nam và nằm bên bờ tả ngạn sông Thao, xưa kia Tứ Xã là vùng đồng trũng ngập nước, thỉnh thoảng nổi lên những đồi gò là chỗ ở của người Việt cổ, lúa chỉ làm một vụ, quanh năm sinh sống bằng nghề vó bè.
Thực ra Trò Trám chỉ là một phần, nhưng là phần hấp dẫn và vui nhất của Lễ hội Tứ Xã kéo dài trong 3 ngày (10 đến 12 tháng Giêng). Diễn ra vào nửa đêm ngày 11 và kéo dài tới rạng sáng ngày 12, Trò Trám diễn ra tại miếu Trò gồm: Lễ mật, hay lễ phồn thực cầu cho nhân dân được bình an, hạnh phúc, cầu mong giống nòi sinh sôi nảy nở; Lễ rước lúa thần - lễ cầu mùa, cầu no ấm, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt; và Trò Trám: Trò trình nghề tứ dân chi nghiệp với bốn nghề chính trong dân gian là sĩ, nông, công, thương.Đúng 12 giờ đêm, đèn đuốc tắt phụt, mọi người nín thở, vị trưởng lão cẩn trọng mở chiếc hòm thiêng, mở các lớp khăn điều lấy ra bộ dùi gỗ tả thực hình dương vật sơn son (Nõ) với chiếc mảng gỗ đỏ tạo hình âm vật (Nường), kính cẩn trao Nõ cho người nam ở trần chít khăn và Nường cho người nữ yếm thắm. Khẩu lệnh “Linh tinh tình… Phộc” lặp lại 3 lần, sau mỗi lần, trong bóng tối, người nam dùng Nõ đâm “phộc” vào Nường. Nếu cả ba lần Nõ đâm trúng Nường thì năm đó thời tiết thuận hòa, mùa màng bội thu… Mỗi lần Nõ đâm trúng Nường, chiêng trống nổi lên, dân làng đứng quanh miếu reo hò vui vẻ.
[size=3]Tình phộc! xưa diễn ra trong bóng tối của Lễ Mật, nay dưới ánh sáng flash của rừng ống kính báo chí và những kẻ tò mò. Ảnh: Đỗ Doãn Hoàng-Xuân Bình [/size] |
(Mình bình luận thêm rằng nhiều làng thờ chày và cối,tượng trưng cho sinh dục nam và nữ,để cầu nguyện cho con cháu đông đúc,sung túc )
Sau màn “Linh tinh tình… Phộc” này, đến màn “Tháo khoán”, trai gái và dân làng đổ ra khu vườn đằng sau miếu thờ thoải mái ghẹo nhau. Theo lệ làng, sau đêm “Tháo khoán”, những đôi trai gái nghèo chỉ cần đem cơi trầu trình với các cụ là có thể về ở với nhau làm vợ chồng. Những đứa trẻ sinh ra từ đêm “Tháo khoán” cũng không bị làng chê cười, mà trái lại, còn được xem là đem lại may mắn…Tất nhiên đấy là những chuyện ngày xưa.
Một thời gian dài lễ hội Tứ Xã và Trò Trám bị đứt đoạn, thậm chí, nó còn bị bài bác là trụy lạc… Đầu những năm 1990, lễ hội Tứ Xã bắt đầu nhen nhóm trở lại nhưng phải tới năm 2000 lễ hội độc nhất vô nhị này mới được chính thức phục hồi với quy mô quốc gia. Năm ngoái, 2010, nhân dịp miếu Trò được công nhận di tích cấp tỉnh, lễ hội Tứ Xã được tổ chức rất to.
Ở Vĩnh Phúc, tín ngưỡng phồn thực cũng được thể hiện ở hai dạng: thờ sinh thực khí và thờ hành vi giao phối. Song dạng thứ nhất là phổ biến và rõ nét hơn cả.
Hình thức thờ sinh thực khí phổ biến nhất ở Vĩnh Phúc là thờ các “cây bông” với các lễ hội “rước bông” “cướp bông” diễn ra ở khá nhiều nơi. Chẳng hạn như:
- Hội cướp bông làng Bồ Sao, xã Bồ Sao, huyện Vĩnh Tường
- Hội cướp bông làng Thạch Đà, xã Thạch Đà, huyện Mê Linh
- Hội rước cây bông làng Cam Giá, xã An Tường, huyện Vĩnh Tường
- Hội rước cây bông làng Thượng Yên, xã Đồng Thịnh, huyện Lập Thạch
- Hội cướp bông làng Trung Hà, xã Trung Hà, huyện Yên Lạc
- Nghi thức cướp bông làng Bạch Trữ, xã Tiến Thịnh, huyện Mê Linh
- Thờ cây bông làng Trung Hà, xã Tiến Thịnh, huyện Mê Linh
- Tiệc cây bông làng Phủ Yên, xã Yên Lập, huyệnVĩnh Tường
- Hội cướp bông làng Tây Xá, xã Hoàng Kim, huyện Mê Linh
- Hội cướp bông làng Bồng Mạc, xã Liên Mạc, huyện Mê Linh
- Hội cướp bông làng Cư An, xã Tam Đồng, huyện Mê Linh
- Trò “huy bông” (tung cướp bông) làng Hạ Ích, xã Đồng Ích, huyện Lập Thạch.
Cây bông tượng trưng cho sinh thực khí nam, được tạo thành từ một đoạn thân cây tre, xung quanh thân cây có các cụm bông xù ra. Có nơi cây bông chỉ là một đốt tre non tước xơ rất mỏng rồi được buộc lại thành hình cuộn sợi bông (làng Bạch Trữ). Có nơi là một đoạn tre dài nhiều lóng, người ta dùng dao vót tre cho xù lên tạo thành các cụm bông giữa mỗi lóng, trông như các quả bông (làng Bồ Sao, Trung Hà, Thạch Đà…). Đặc biệt nhất là cây bông làng Thượng Yên, ngọn cây là một đoạn tre non đầu dưới được dóc thành tua tỏa ra, phần thân tre còn lại được quấn vòng quanh bằng giấy đỏ, trên ngọn cắm một lá cờ hình vuông hoặc tam giác. Ngọn cây bông lại được cắm vào một thân cây chuối hột, tức là thân cây bông, cao khoảng 3-4m, xung quanh người ta cắm các bông lúa, bông vải, bông đỗ làm bằng các dải tua cạo từ lõi cây tre non, nhuộm màu xanh, đỏ, vàng, trắng. Mỗi cây bông được trang trí bằng hàng chục bông như thế, cắm dày đặc trên thân cây, tạo thành một tháp bông tung xòe sặc sỡ. Đúng như tên gọi cây “Nõ Nường” của dân làng, đây là một hình ảnh rõ nét nhất về dạng thờ sinh thực khí của tín ngưỡng phồn thực.
Ngoài hình thức “cây bông”, xuất hiện nhiều trong các lễ hội xuân ở Vĩnh Phúc là hình ảnh một quả cầu tròn bằng gỗ hoặc đá hoặc bông, cũng tượng trưng cho sinh thực khí nam, thường được gọi là “cầu” hay “phết”. Vì thế, các lễ hội “cướp phết” “cướp cầu” mang ý nghĩa là các lễ hội “cầu đinh” = “cầu con trai” của dân làng. Đây cũng là một hình thức lễ hội khá phổ biến vào mùa xuân, diễn ra ở nhiều nơi như:
- Hội đả cầu cướp phết bốn làng Đông Lai, Trụ Thạch, Ngọc Xuân, Hoa Giang và hội phết làng Tây Hạ ở xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch.
- Hội cướp cầu làng Thượng Yên, xã Đồng Thịnh, huyện Lập Thạch.
- Hội cướp cầu làng Nội Phật, xã Tam Hợp, huyện Bình Xuyên.
- Trò hất phết làng Thượng Lạp, xã Tân Tiến, huyện Vĩnh Tường.
- Trò móc khiểu và reo cầu làng Đôn Hậu, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên.v.v.
Mặc dù việc thờ cúng, tế lễ, hay trò chơi trò diễn với các quả cầu ở trên thường được ẩn sau một sự tích hoặc một lời giải thích nào đó có liên quan đến các vị thần được thờ ở đình, đền, miếu của làng song xét về nguồn gốc, đây chính là một dạng thức của tín ngưỡng phồn thực bắt nguồn từ tâm thức nông nghiệp. Ai cũng mong muốn cướp được cầu hay phết để được lộc, để có con trai, để vụ mùa được tươi tốt…
Dạng thứ hai của tín ngưỡng phồn thực là thờ các hành vi giao phối. Dạng này không được thấy nhiều và rõ ràng ở Vĩnh Phúc mà chỉ xuất hiện dưới hình thức một số trò chơi dân gian trong lễ hội. Đó là các trò:
- Leo cầu cầu đinh làng Thạc Trục, thị trấn Lập Thạch, huyện Lập Thạch.
- Bắt chạch trong chum ở xã Tứ Trưng (Vĩnh Tường), làng Bạch Trữ (xã Tiến Thắng, Mê Linh)
- Đu tiên hay đu cây, đu bay ở hầu hết các làng có tổ chức lễ hội…
Tham dự các trò chơi này thường là một hay nhiều cặp nam nữ, vừa thực hiện các yêu cầu của trò chơi như: cùng leo cầu gỗ, cùng bắt chạch trong một chum nước… vừa thực hiện các hành vi mô phỏng hoặc có liên quan đến hành vi giao phối như: ôm eo, ôm vai, sờ ngực, đu nhún… Các trò này ngày nay vừa là tồn dư của lễ thức cầu đinh lại vừa mang tính chất vui đùa, nghịch ngợm, tăng tính hào hứng, nhộn nhịp cho các dịp lễ hội.
Tóm lại, có thể thấy, tất cả các dạng thức: Cướp bông, cướp cầu/phết hay leo cầu, bắt chạch (cầu đinh) và đu tiên… đều là các hình thức trình diễn nhằm một mục đích thể hiện ước muốn trước thần thánh và đất trời với thông điệp rằng: Hỡi các đấng thần linh cao viễn, hỡi cha trời mẹ đất, hãy thấu hiểu những lời chúng con cầu khấn, mong muốn, hãy xem những gì chúng con “làm” mà “bắt chước”, mà theo đó giao hòa trời đất, để cho mưa – tinh dịch của cha trời rơi xuống tưới nhuần đất mẹ, cho ngô lúa đâm chồi, cây cối nảy lộc, vạn vật và con người sinh sôi, nảy nở, tốt tươi…